Phân tích bài thơ Hầu Trời - Tản Đà

- Hư cấu về một giấc mơ được lên hầu trời, mộng mà như tỉnh, gợi sự tò mò nơi người đọc.

- Điệp từ “thật”: 4 lần / 2 câu cùng cảm thán, ngắt nhịp 2/2/3: khẳng định chắc chắn là chuyện có thật

=> Lối vào đề có sức hấp dẫn, gây ấn tượng mạnh mẽ, gợi trí tò mò

- Hoàn cảnh cụ thể:

+ Trăng sáng, canh ba rất khuya

+ Nhà thơ không ngủ được, ngâm ngợi thơ văn, ngắm trăng trên sân nhà

+ Hai cô tiên xuất hiện, cùng cười, nói trời đang mắng vì người đọc thơ mất giấc ngủ của trời, trời sai lên đọc thơ cho trời nghe!

- Tuy nhiên, việc lên đọc thơ hầu trời cũng là việc bất đăc dĩ: “Trời đã sai gọi thời phải lên”

=> Có chút gì đó ngông nghênh, kiêu bạc, tự nâng mình lên trên thiên hạ

a. Khung cảnh đọc thơ hầu trời

Không gian bao la, sang trọng, cùng những nghi lễ quý phái trên trời nhưng không phải ai cũng được lên đọc thơ cho trời nghe. Cách miêu tả này làm nổi bật cái ngông của nhân vật trữ tình.

b. Thái độ của thi nhân khi đọc thơ

- Cao hứng: Đương cơn đắc ý, đọc thơ ran cung mây

- Tự đắc, tự khen: Văn đã giàu thay lại lắm lối...

- Thi nhân kể tường tận, chi tiết tác phẩm của mình

- Giọng đọc: đa dạng, hóm hỉnh, ngông nghênh, có phần tự đắc

=> Thi nhân rất ý thức về tài năng thơ văn của mình, táo bạo, ngông, dám đường hoàng bộc lộ “cái tôi” cá thể

=> Thể hiện thái độ phản ứng của người nghệ sĩ tài hoa, không muốn chấp nhận sự bằng phẳng, đơn điệu.

c. Thái độ của người nghe thơ

* Thái độ của các vị chư tiên:

- Mỗi người một phản ứng khác nhau song phản ứng chung của các vị tiên: nghe rất chăm chú, rất xúc động; tán thưởng và hâm mộ

=> Nhà thơ ý thức được rõ tài năng và giá trị của mình.

* Thái độ của Trời:

- Trời khen, không tiếc lời tán dương, khằng định cái tài của người đọc thơ:

=> Kể lại việc trời khen mình cũng chính là một hình thức tự khen.

=> Người đọc thơ hay mà tâm lí người nghe thơ cũng thấy hay khiến người đọc bài thơ này cũng như bị cuốn hút vào câu chuyện

a. Tản Đà tự xưng tên tuổi

- Tản Đà giới thiệu về mình, với nét riêng:

- Nhịp thơ linh hoạt chuyển từ 4/3 chuyển sang 2/2/3 với giọng thơ dí dỏm

- Cách gọi họ tên trong thơ văn càng giúp khẳng định ý cái tôi cá nhân và thể hiện lòng tự tôn , tự hào về dân tộc mình “sông Đà núi Tản nước Nam Việt”.

b. Khát vọng, nhiệm vụ của thi nhân và hiện thực phũ phàng

- Thiện việc thiên lương chốn trần gian

- Hiện thực phũ phàng: Cuộc sống nghèo khó, thiếu túng, bị coi thường

- Khát vọng thiên lương của mình mâu thuẫn với hoàn cảnh thực tại. Đó là một ẩn dụ đau lòng cho những gì mà nhà thơ phải đối diện trong nghề nghiệp và cuộc sống.

c. Quan niệm của thi nhân về nghề văn

- Sứ mệnh của văn chương ấy là gánh vác việc “thiên lương” của nhân loại.

- Nhà thơ phải chuyên tâm với nghề, không ngừng học hỏi, mở mang vốn sống.

- Viết văn cũng chính là một nghề kiếm sống, có người bán, người mua, có thị trường tiêu thụ, có thị hiếu người đọc,…

=> Quan niệm về nghề văn của Tản Đà rất mới mẻ, hiện đại, khác hẳn quan niệm của thế hệ trước ông.

- Tự cho mình làm văn hay tới mức trời cũng phải tán thưởng

- Không thấy ai xứng đáng làm tri âm với mình ngoài Trời và chư tiên

- Xem mình là một trích tiên bị trời đày vì tội ngông

- Nhận mình là người nhà trời, được sai xuống thực hiện sứ mệnh cao cả (thực hành thiên lương)

=> Cái tôi cá nhân ngông nghênh, phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định giữa cuộc đời (bằng văn chương).

- Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do, không bị trói buộc bởi khuôn mẫu

- Ngôn ngữ thơ: từ ngữ nôm na, bình dị; hình tượng thơ gần gũi, bình dị

- Giọng thơ: tự sự hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn

- Biểu hiện cảm xúc: phóng túng, tự do, không bị gò ép.

- Hình thức: thơ kể chuyện, đưa chất văn xuôi vào thơ

- Tác giả hiện diện trong bài thơ với tư cách người kể chuyện, đồng thời là nhân vật chính.

Tản Đà dấu gạch nối, bản lề khép mở giữa hai giai đoạn văn học Việt Nam. Ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, phong phú trên nhiều thể loại. Tác phẩm của ông thể hiện cái tôi vừa lãng mạn, bay bổng vừa ngông nghênh. Chính những yếu tố đã tạo nên dấu ấn riêng biệt cho thơ văn Tản Đà. Hầu trời có thể coi là một trong những tác phẩm hay nhất, kết tinh giá trị nội dung, nghệ thuật của Tàn Đà.

Cách Tản Đà mở đầu tác phẩm của mình hết sức đặc biệt:

Đêm qua chẳng biết có hay không,

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

Thật được lên tiên sướng lạ lùng.

Câu thơ đầu tiên là nỗi băn khoăn hết sức chân thật, liệu đêm qua có là thực, hay chỉ là hư. Hỏi đấy rồi để câu thơ 2,3,4 ông đã tự trả lời cho chính những băn khoăn ấy: Tản Đà khẳng định giấc mơ đêm qua bằng cách phủ định liên tiếp, từ “thật” được lặp lại bốn lần: thật hồn, thật phách, thật thân thể, thật được lên tiên để nhấn mạnh những cung bậc cảm xúc mà đêm qua chính ông đã được trải nghiệm, đó là nỗi “sướng lạ lùng”. Đây chính là cách Tản Đà dìu dắt người đọc vào thế giới mộng tưởng, vào giấc mơ đêm qua của ông.

Trong đêm trăng thanh gió mát, giữa lúc canh ba yên ắng, tĩnh mịch, Tản Đà nằm buồn uống nước và ngâm văn thì bỗng thấy có hai cô tiên xuống đón ông lên trời. Chuyện dường như hoàn toàn hư cấu, khó lòng có thể tin được nhưng bằng cách giải thích dí dóm, hải hước, Tản Đà đã khiến cho lí do đó trở nên chân thực, đồng thời còn khẳng định được tài năng của bản thân: “Trời nghe hạ giới ai ngâm nga/ Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà/ Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng/ Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.

Trước sự đón tiếp nồng hậu, nhiệt tình của thiên giới, thi sĩ hăng say thể hiện bản thân:

Đọc hết văn vần sang văn xuôi

Hết văn thuyết lí lại văn chơi

Và ông tự lên tiếng khẳng định, tự khen tài năng văn chương của bản thân “văn dài hơi tốt”, “văn đã giàu thay lại lắm lối”. Ông khẳng định tài năng của bản thân không chỉ ở phần nội dung, nghệ thuật mà văn chương còn đồ sộ về số lượng, phong phú về thể loại. Trước tài năng của Tản Đà ai nấy đều cảm thấy vui sướng, hạnh phúc: Trời “lấy làm hay” “bật buồn cười”. Các vị chư tiên “nở dạ” (sung sướng), “lè lưỡi” (thán phục), “chau mày” (suy ngẫm), “lắng tai” (chăm chú), “cùng vỗ tay” (tán dương), ao ước mong mỏi sở hữu những bài thơ bài văn ấy. Và họ tranh nhau dặn:

- “Anh ghánh lên đây bán chợ Trời”

Những lời tán dương, ngợi khen của các vị chư tiên lại một lần nữa khẳng định tài năng của Tản Đà:

Nhời văn chuốt đẹp như sao băng

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng, tinh như sương

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết.

Hàng loạt hình ảnh so sánh đẹp đẽ nhất, tinh khiết nhất: sao băng, mây chuyển, tinh như sương, đầm như mưa sa, lạnh như tuyết, đã diễn tả những vẻ đẹp đa dạng, phong phú trong thơ văn Tản Đà. Đồng thời cho thấy niềm sây mê ngưỡng mộ của họ đối với thi nhân. Niềm đam mê văn chương đã xóa nhòa khoảng cách giữa một người trần mắt thịt với những người của nhà Trời. Dường như đến với nghệ thuật, chính cái hay, cái đẹp là sợi chỉ kết nối những tâm hồn nghệ sĩ với nhau, giữa chiếu văn chương không còn người nhà Trời với người trần, không còn người bề trên với kẻ bề tôi, mà chỉ còn quan hệ giữa tác giả và độc giả.

Đoạn thơ đã cho người đọc phần nào thấy được con người của Tản Đà, ông là một người tự tin, kiêu hãnh với tài năng của bản thân, ông ý thức được giá trị của chính mình. Nhưng đồng thời cuộc vượt thoát lên chốn tiên giới này cũng cho thấy sự cô đơn, lạc lõng của ông với cuộc đời. Ông khao khát tìm được tri âm để có thể thấu hiểu tất thảy những tâm tư, tình cảm của mình. Đây đồng thời cũng là khát vọng chung của những người nghệ sĩ đương thời.

Sau khi đem tài năng thể hiện cho mọi người, Tản Đà đồng thời cũng đem những tâm sự rất thực chia sẻ với Trời cùng các chư tiên: “Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó/ Trần gian thước đất cũng không có”. Cái ông có chỉ là “một bụng văn” nhưng lại bị o ép nhiều chiều: thuê giấy mực, in, lại thuê cửa hàng, hao công tốn của nhưng văn chương hạ giới lại rẻ mạt, “Kiếm được đồng lãi thực rất khó” “Làm ăn quanh năm chẳng đủ tiêu”. Câu thơ đậm cảm xúc ngậm ngùi, nghi ngại về sứ mệnh của kẻ cầm bút. Để rồi sau đó, Trời đưa ra những lời động viên hết sức chân thành: “Thôi con cứ về mà làm ăn/ Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”. Lời động viên cũng chính là lời tự an ủi chính mình và các văn sĩ cùng thời. Đoạn thơ này lại cho thấy cái “ngông” trong con người Tản Đàm tự tin, kiêu hãnh về giá trị của bản thân đồng thời ông cũng có ý thức trách nhiệm với cuộc đời.

Bằng thể thơ thất ngôn trường thiên, với ngôn ngữ trong sáng, giọng điệu tự nhiên Tản Đà đã mạnh dạn thể hiện cái tôi của bản thân. Đó là cái tôi : ngông ngạo, phóng túng, tự ý thức sâu sắc về tài năng, giá trị đích thực của mình, khao khát được khẳng định giá trị của mình trước cuộc đời.